Cuối tuần qua, khu Little Sài Gòn rộn ràng với nhiều sự kiện văn hóa, lịch sử và âm nhạc. Một trong những sự kiện có tầm vóc và nổi bật là cuộc Triển lãm & Hội thảo “Từ Cuộc Di Tản Đến Di Sản: 50 Năm Hành Trình Người Mỹ Gốc Việt” tại Bowers Museum, Santa Ana, diễn ra từ ngày 21 đến 23 tháng 11 năm 2025. Sự kiện này được tổ chức nhân kỷ niệm 50 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam và sự hình thành cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ.
Cuộc triển lãm và hội thảo lần này do Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt (VHM) tổ chức với các mục tiêu chính: bảo tồn ký ức trung thực về lịch sử, tôn vinh sức sống của cộng đồng tỵ nạn, tạo không gian đối thoại lành mạnh giữa các thế hệ, và xây dựng nhịp cầu hiểu biết, cảm thông giữa các thế hệ.
Buổi hội thảo “Nhịp Cầu Nối Các Thế Hệ” chiều ngày 23/11. (Ảnh: VHM)
Phiên thảo luận đầu tiên diễn ra vào ngày 21 tháng 11 với chủ đề “Từ Sụp Đổ Đến Dựng Xây — Cuộc Di Tản và Sự Hình Thành Cộng Đồng Người Mỹ Gốc Việt”. Phiên này đã phác họa hành trình từ sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa đến sự ra đời của cộng đồng người Mỹ gốc Việt với năm diễn giả, năm góc nhìn, dưới sự điều hợp của Tiến sĩ Duyên Bùi.
Tiến sĩ Jason R. Nguyễn mở đầu bằng việc vẽ lại bối cảnh lịch sử đã tạo nên cộng đồng người Việt hải ngoại, từ cuộc chiến và những dư chấn kéo dài suốt 50 năm qua. Tiến sĩ Ann Ngọc Trần mở rộng bối cảnh với bản đồ của nhiều làn sóng di cư—từ những nhóm du học sinh của những năm 1960 đến các thế hệ gần đây nhất—cho thấy bản sắc của cộng đồng di dân gốc Việt được tạo nên từ những hoàn cảnh, thời điểm lịch sử cũng như các đợt dịch chuyển toàn cầu. Nhạc sĩ Nam Lộc Nguyễn cho rằng lịch sử không chỉ là sự lưu trữ, mà còn qua việc sống để phục vụ. Việc bốn thập niên qua ông dấn thân để giúp đỡ người tị nạn Việt Nam là một minh chứng. Và khi tiếng hát của chính ông cất lên “Sài Gòn ơi, ta đã mất người trong cuộc đời” đã đưa người tham dự hội thảo trở về với những ngày đầu di tản, mất quê hương, xa gia đình, cũng là khi lịch sử và con người hòa quyện, 50 năm qua, cảm xúc vẫn không hề phai mờ.
Ban tổ chức và đoàn trống Thiên Ân sau phần trình diễn khai mạc sáng 22/11. (Ảnh: Việt Báo)
Tiến sĩ Elwing Sương Gonzalez trở lại với những mô hình xã hội cho thấy một đời người có thể được đọc song song với những chuyển biến xã hội rộng lớn hơn, với sự hình thành của các cộng đồng người Việt tại những nơi như Los Angeles. Tiến sĩ YThien Nguyễn phân tích bản chất phức tạp của chủ nghĩa dân tộc và tinh thần chống cộng ở cộng đồng người Việt hải ngoại, cho thấy những căn tính chính trị trong chiến tranh vẫn tiếp tục nơi đất khách quê người. Điều đáng nói nhất nằm ở phần Vấn & Đáp, nơi tiếng nói từ nhiều thế hệ và xuất thân khác nhau được cất lên. Nhiều câu hỏi từ các em học sinh trung học thật mạnh dạn, sắc bén, chứng tỏ rằng thế hệ trẻ không hề thờ ơ hay xa lánh câu chuyện của lịch sử tị nạn. Buổi hội thảo đầu tiên vừa đủ để vẽ lên những nét đầu của bức tranh toàn cảnh, hứa hẹn nhiều màu sắc và câu chuyện kế tiếp.
Buổi chiếu phim Finding The Virgo chiều 21/11. (Ảnh: VHM)
Một điểm son của chương trình hội thảo là buổi chiếu phim “Finding the Virgo” vào buổi chiều cùng ngày. Theo tiến sĩ Alex Thái, đây là một trong những khoảnh khắc xúc động nhất. Khi ánh đèn tắt và câu chuyện của gia đình họ Vương hiện lên—người cha bị tù sau 1975, hành trình vượt biển hiểm nguy của cả nhà, và cuộc tìm kiếm kéo dài nhiều thập niên của Lauren Vương Ngọc Lan để gặp lại thủy thủ đoàn tàu USS Virgo đã cứu họ thì cả khán phòng như lặng đi. Có người đưa tay lau nước mắt; những người khác ngồi nghiêng về phía trước, lặng lẽ đón nhận sức nặng cảm xúc của một câu chuyện phản chiếu chính lịch sử gia đình họ, hoặc gợi lại những trải nghiệm chung của cộng đồng người tỵ nạn Việt Nam. Finding the Virgo không chỉ nói về người Việt hải ngoại, mà còn phản chiếu khủng hoảng tỵ nạn hiện nay vẫn đang diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới, trong đó có cả Hoa Kỳ.
Ngày thứ hai của sự kiện (thứ Bảy, 22/11) gồm ba cuộc hội thảo, với các chủ đề liên quan đến những khó khăn và thành tựu mà cộng đồng người Việt tị nạn đã trải qua và đạt được.
Phiên thảo luận 2: “Chính trị, Kinh doanh & Giáo dục” gồm các diễn giả: thạc sĩ Cathy Beaupain, tiến sĩ Annie Bích-Loan Dương, tiến sĩ Trí C. Trần, nhà giáo dục Frances Thế Thủy Nguyễn, bác sĩ Tâm Thành Nguyễn, nghị viên Thái Việt Phan; do thạc sĩ Joseph Nguyễn điều hợp. Họ thuộc những thế hệ tị nạn khác nhau, hiện đang hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, giáo dục, chính trị tại Hoa Kỳ. Tất cả đều đồng ý rằng cần phải duy trì bản sắc văn hóa Việt Nam trong những thế hệ tiếp nối, và phương cách hữu hiệu nhất để làm điều này là duy trì ngôn ngữ văn hóa Việt.
Ban tổ chức và các thành viên trong buổi hội thảo “Chính trị, Kinh doanh & Giáo dục” ngày 22/11. (Ảnh: Việt Báo)
Chị Nguyễn Thế Thủy di tản sang Hoa Kỳ năm 1975, là nhà hoạt động văn hóa Việt Nam tại Mỹ từ rất sớm. Chị tham gia sinh hoạt trong nhiều lĩnh vực: Hội Sinh viên Gốc Việt đại học UCI từ thập niên 1980, Tổng hội Sinh viên, phong trào Hướng Đạo… Với tư cách là thành viên Hội đồng Giáo dục Học Khu Westminster, chị đã đem tiếng Việt vào chương trình song ngữ của các trường học của học khu, một thành tựu quan trọng trong việc duy trì tiếng Việt cho các thế hệ tiếp nối. Bác sĩ Tâm Nguyễn nói về trường dạy nghề ngành nail ABC của gia đình, một nghề đã trở thành biểu tượng của sự vượt khó vươn lên của cộng đồng gốc Việt tại Mỹ. Anh hãnh diện mình vẫn giữ nguyên tên Tâm khi vào quốc tịch Mỹ. Theo anh, một trong những phương cách hiệu quả để duy trì, quảng bá văn hóa Việt tại hải ngoại là sử dụng văn hóa ẩm thực Việt. Phở, bánh mì, cà phê Việt Nam đã trở thành những thương hiệu ẩm thực mang tầm vóc quốc tế, dễ duy trì và phát triển để kết nối thế hệ trẻ với văn hóa Việt. Nghị Viên Thái Việt Phan nhắc lại nguồn gốc tên mình là vì sinh ra ở Thái Lan khi gia đình vượt biên sang Thái. Chị trở thành nghị viên thành phố Santa Ana vì muốn có đại diện gốc Việt tại cái nôi của cộng đồng người Việt Quận Cam. Không chỉ hãnh diện vì nguồn gốc tị nạn của mình, chị ủng hộ những cộng đồng di dân khác đang gặp khó khăn do chính sách chống di dân của chính phủ hiện nay. Không thể nói người Việt di dân vào Hoa Kỳ là hợp pháp, còn cộng đồng di dân gốc Nam Mỹ là bất hợp pháp. Nên nhớ lại khi làn sóng người Việt vượt biển tị nạn sang các quốc gia láng giềng, họ bị xem là di dân bất hợp pháp. Nếu không có các chính sách nhân đạo của Hoa Kỳ và các quốc gia khác, cộng đồng người Việt tị nạn không thể lớn mạnh như ngày hôm nay.
Qua từng câu chuyện, các diễn giả đã cùng nhau xác nhận rằng công việc lãnh đạo của người Mỹ gốc Việt không phải là một câu chuyện đơn giản — ngược lại, cần can đảm mơ lớn cho mình và cho cộng đồng, và điều chúng ta cần làm bây giờ chỉ đơn giản là mở đường cho những ước mơ đó tiếp tục bay cao.
Một chương trình thảo luận gây nhiều suy ngẫm là phiên thảo luận “Chấn thương tâm lý, Sự im lặng & Chữa lành”, nêu lên sự cần thiết được nói ra khi con người trải qua điều đau đớn. Việc “im lặng” được đặt cạnh “chấn thương” cho thấy nhiều người vẫn chưa từng được lắng nghe thật sự — dù lắng nghe không đòi hỏi đồng ý, chỉ cần có không gian để cất tiếng.
Điều hợp bởi nữ diễn viên Quyên Ngô, các diễn giả gồm bác sĩ Suzie Xuyến Đông, đạo diễn Đức Nguyễn, tiến sĩ Thảo Hà là những người đều đã tiếp xúc với nhiều cá nhân, gia đình vượt biển, tị nạn, phải chịu những chấn thương tâm lý nặng nề, dẫn đến khủng hoảng tâm lý ảnh hưởng đến bản thân và truyền cho những thế hệ sau của gia đình. Cả ba đều đồng ý một trong những phương thức để chữa lành tốt nhất là tạo cơ hội để nạn nhân nói ra những uẩn ức trong nội tâm. Tự xem mình là một “người kể chuyện”, đạo diễn Đức Nguyễn đã chứng kiến nhiều nạn nhân khủng hoảng tâm lý có được đời sống bình an hơn sau khi kể lại ký ức đau thương của mình. Câu truyện của bộ phim tài liệu Bolinao 52 là một thí dụ. Bác sĩ Đông Xuyến, người đã lắng nghe không biết bao nhiêu câu chuyện thương tâm của các gia đình tị nạn gốc Việt, cho rằng chỉ cần biết cách lắng nghe, không phán xét sẽ giúp ích cho các nạn nhân rất nhiều. Chị nói về phương pháp chánh niệm, dùng hơi thở để làm lắng đọng những cảm xúc tiêu cực. Tiến sĩ Thảo Hà cho rằng việc lắng nghe để giúp chữa lành vết thương tâm lý của nạn nhân đem lại những niềm hạnh phúc vô giá.
Phiên thảo luận cuối ngày là phần “Truyền thông, Văn hóa & Nghệ thuật Qua Các Thế hệ”, với các diễn giả: dược sĩ Ysa Lê, nhà tài trợ Linh Kochan, xướng ngôn viên Diệu-Quyên, luật sư Đỗ Phủ Nguyễn, nhà báo Titi Mary Trần; điều hợp viên là tiến sĩ Jason R. Nguyễn. Hầu hết những diễn giả đều có nghề nghiệp riêng, nhưng trở thành những nhà hoạt động truyền thông văn hóa bởi vì tin rằng đó là những phương tiện tuyệt vời để kết nối và chữa lành vết thương cộng đồng.
Phiên thảo Truyền Thông, Văn Hóa và Nghệ Thuật qua Các Thế Hệ với tiến sĩ Jason R. Nguyễn, nhà báo Titi Mary Trần, luật sư Đỗ Phủ Nguyễn, xướng ngôn viên Diệu-Quyên, nhà tài trợ Linh Kochan, và dược sĩ Ysa Lê.
Là một giảng viên dạy toán, Việt Ngữ, chị Diệu Quyên theo chồng là Trúc Hồ hoạt động truyền thông, văn hóa. Tổ chức Bên Em Đang Có Ta do chị đồng sáng lập đã gây quỹ hàng triệu USD để giúp nạn nhân của nhiều đợt thiên tai, bão lụt. Luật sư Đỗ Phủ, đồng sáng lập viên đài truyền hình SBTN, kể lại trong một lần đi thăm Hong Kong vào năm 1997, anh khâm phục nền văn hóa Hong Kong đứng vững trong suốt nửa thế kỷ trước sự đe dọa của Trung Cộng. Tự hỏi mình có thể làm gì để bảo tồn di sản văn hóa VNCH ở hải ngoại, anh trở thành đồng sáng lập viên SBTN, đài truyền hình tiếng Việt đầu tiên ở hải ngoại, đã hoạt động hơn 25 năm qua. Còn dược sĩ Y Sa vẫn còn nhớ như in hơn hai thập niên trước khi bắt đầu làm việc tình nguyện cho Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA). Sau khi bố chị là nhà báo Lê Đình Điểu, đồng sáng lập viên VAALA qua đời, chị thay bố trong vai trò điều hành. Hơn hai thập niên qua, chị chứng kiến văn học, hội họa, phim ảnh trở thành phương tiện kết nối các thế hệ của cộng đồng người Việt ở khắp nơi trên thế giới. Chị Linh Kochan nhắc đến những buổi trình diễn của nghệ sĩ đàn tranh Vân Ánh Võ mà chị thường xuyên tài trợ, góp phần phổ biến âm nhạc cổ truyền Việt Nam vào dòng chính. Nhà báo Mary Trần nói lên những khó khăn của người làm truyền thông hiện nay, khi mạng xã hội tràn ngập tin giả vì mục tiêu chính trị, nhắc đến trách nhiệm của một người làm truyền thông chân chính là phải kiểm chứng nguồn tin xác thực cẩn thận trước khi đưa tin. Chị tin rằng sự thật vẫn luôn là sức mạnh bền vững của ngành truyền thông.
Văn hóa, truyền thông, nghệ thuật luôn là một liều thuốc tinh thần cần thiết trong đời sống người Việt xa quê hương, các diễn giả một lần nữa xác định mức độ quan trọng này.
Phiên thảo luận vào buổi trưa ngày cuối (23/11) mang chủ đề “Nhịp Cầu Nối Các Thế Hệ”, với các diễn giả trẻ: tiến sĩ Pauline Đồng, cựu phó thị trưởng Thu-Hà Nguyễn, Diễn viên Quyên Ngô, Nhà hoạt động Tracy La, Jolynna Đặng; điều hợp viên là tiến sĩ Duyên Bùi. Ban tổ chức cho rằng việc có mặt của các diễn giả thuộc nhiều thế hệ khác nhau là cơ hội để mở rộng đối thoại, lắng nghe, tìm hiểu lẫn nhau trong tinh thần tôn trọng và thấu hiểu. Mục tiêu của ban tổ chức không phải là phân định đúng–sai; chỉ muốn tạo nên một không gian tôn trọng và bao dung để lịch sử và hiện thực được nói lên từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Trong một phần của buổi hội thảo, khi được hỏi về những hoạt động gây tranh cãi gần đây của VietRise (trong buổi picnic tại công viên Garden Grove VietRISE có các bài thuyết trình về Chương trình Thanh niên Hồ Chí Minh và về Cách mạng Tháng Tám), đồng sáng lập viên VietRise Tracy La trả lời rằng các chương trình dành cho giới trẻ của nhóm xuất phát trực tiếp từ những mối quan tâm của người trẻ. Các em đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta không biết gì về lịch sử Việt Nam – đặc biệt là lịch sử trước năm 1975? Tại sao lại có quá nhiều sự ngần ngại khi giảng dạy hoặc nói về nó?” Tracy cũng cho biết hiện tại, VietRise công khai thảo luận về các vấn đề như thuộc địa hóa và chiếm đóng ở Palestine; nói về việc chủ nghĩa đế quốc gây hại cho các dân tộc qua nhiều thế hệ như thế nào. Vậy tại sao không thể nói một cách chân thành về lịch sử thuộc địa, xung đột và kháng chiến của chính dân tộc Việt Nam?
Theo Tracy La, buổi picnic của VietRise không có ý tôn vinh Hồ Chí Minh, mà nhằm mục đích kết nối các bạn trẻ như vẫn làm hàng năm; giúp các bạn trẻ hiểu rõ hơn về các nhân vật và sự kiện lịch sử, không để cổ súy cho bất kỳ hệ tư tưởng chính trị nào. Bài thuyết trình của VietRise rất đơn giản—chỉ có bảy slide, nội dung chia sẻ vẫn còn nằm trên Instagram. VietRise hướng dẫn các bạn trẻ cách nói chuyện tôn trọng với những người bất đồng quan điểm, chỉ tham gia vào cuộc đối thoại khi có ý định trao đổi chân thành. Cuối cùng, điều tổ chức này mong muốn là: Giúp các bạn trẻ hiểu về lịch sử của mình, tự hào về nguồn gốc, cảm thấy an toàn khi đặt câu hỏi về quá khứ.
Triển lãm và hội thảo kết thúc vào chiều ngày Chủ Nhật 23/11/2025, nhưng dư âm của nó chỉ mới bắt đầu. Khắp nơi trên mạng xã hội, những bài tường thuật và những mẩu đối thoại được mở ra. Christina Võ, tác giả của cuốn Việt Nam Của Con, Việt Nam của Cha viết: “Tôi thực sự xúc động trước hội nghị của Vietnamese Heritage Museum (VHM Our Pride) tại Bowers Museum cuối tuần vừa rồi. Sau phiên thảo luận cuối, một bác lớn tuổi — người đã một mình đến Little Saigon vào thập niên 1980 — nói rằng đây là hội nghị hay nhất mà bác từng tham dự ở Orange County suốt bốn mươi lăm năm qua.”
Cô chia sẻ thêm rằng các buổi thảo luận đều sâu sắc, nhiều câu chuyện vẫn còn đọng lại trong cô — nhất là những chuyện đau lòng phản ánh những điều người Việt ở Little Saigon tiếp tục đối diện hôm nay, và cách im lặng vẫn che khuất sự thấu hiểu giữa chúng ta.
Trong năm kỷ niệm 50 năm biến cố 1975, câu hỏi “bao giờ ngừng nói về chiến tranh” lại được nêu ra. Ba ngày hội thảo hội tụ nhiều tiếng nói xuyên thế hệ về nhiều chủ đề cộng đồng người Việt quan tâm, khiến người tham dự ra về không khỏi suy tư. Nhưng trên hết, ban biên tập Việt Báo muốn thay mặt nhiều người tham dự bày tỏ lòng biết ơn đến ban tổ chức đã tạo ra một không gian cho lịch sử, cộng đồng, để cùng hãnh diện, và cùng nêu ra những ưu tư, bên cạnh những cuộc hành trình thành đạt còn những mẩu chuyện khó khăn và những vấn đề còn gây tranh cãi trong cộng đồng.
Tiếng nói của thế hệ thứ hai như Christina Võ cũng chính là quan tâm và hy vọng của giới trẻ khi cô ước mong “mỗi lời chia sẻ, dù nhỏ, cũng mở ra một phần hàn gắn, để mọi câu chuyện đều được thừa nhận như một phần của lịch sử chung.”
